Malaysia mã quốc gia +60

Cách quay số Malaysia

00

60

--

-----

IDDmã quốc gia Mã thành phốsố điện thoại

Malaysia Thông tin cơ bản

Giờ địa phương Thời gian của bạn


Múi giờ địa phương Chênh lệch múi giờ
UTC/GMT +8 giờ

vĩ độ / kinh độ
4°6'33"N / 109°27'20"E
mã hóa iso
MY / MYS
tiền tệ
Ringgit (MYR)
Ngôn ngữ
Bahasa Malaysia (official)
English
Chinese (Cantonese
Mandarin
Hokkien
Hakka
Hainan
Foochow)
Tamil
Telugu
Malayalam
Panjabi
Thai
điện lực
g loại Anh 3 chân g loại Anh 3 chân
Quốc kỳ
MalaysiaQuốc kỳ
thủ đô
Kuala Lumpur
danh sách ngân hàng
Malaysia danh sách ngân hàng
dân số
28,274,729
khu vực
329,750 KM2
GDP (USD)
312,400,000,000
điện thoại
4,589,000
Điện thoại di động
41,325,000
Số lượng máy chủ Internet
422,470
Số người dùng Internet
15,355,000

Malaysia Giới thiệu

Malaysia có diện tích 330.000 km vuông, nằm giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, toàn bộ lãnh thổ được chia thành Đông Malaysia và Tây Malaysia bởi Biển Đông. Nó nằm ở phần phía nam của bán đảo Mã Lai, giáp với Thái Lan về phía bắc, eo biển Malacca ở phía tây và Biển Đông ở phía đông. Đông Malaysia là tên chung của Sarawak và Sabah, nằm ở phía bắc của Kalimantan và có đường bờ biển dài 4192 km. Malaysia có khí hậu rừng mưa nhiệt đới, sản lượng và xuất khẩu cao su, dầu cọ và hạt tiêu đều đứng đầu thế giới.

Malaysia có tổng diện tích là 330.000 km vuông. Nằm ở Đông Nam Á, giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Toàn bộ lãnh thổ được chia thành Đông Malaysia và Tây Malaysia bởi Biển Đông. Tây Malaysia là khu vực Mã Lai, nằm ở phía nam của bán đảo Mã Lai, giáp Thái Lan về phía bắc, eo biển Malacca ở phía tây và Biển Đông ở phía đông. Đông Malaysia là tên chung của Sarawak và Sabah, nằm ở phía bắc của Kalimantan. . Đường bờ biển dài 4192 km. Khí hậu rừng mưa nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở vùng núi nội địa là 22 ℃ -28 ℃, và vùng đồng bằng ven biển là 25 ℃ -30 ℃.

Đất nước được chia thành 13 bang, bao gồm Johor, Kedah, Kelantan, Malacca, Negeri Sembilan, Pahang, Penang, Perak, Perlis, Selangor, Terengganu và Đông Malaysia. Sabah, Sarawak, và ba lãnh thổ liên bang khác: thủ đô Kuala Lumpur, Labuan và Putra Jaya (Putra Jaya, trung tâm hành chính của chính phủ liên bang).

Vào đầu Công nguyên, các vương quốc cổ đại như Jitu và Langyaxiu được thành lập trên Bán đảo Mã Lai. Vào đầu thế kỷ 15, Vương quốc Mãn Châu với Malacca là trung tâm đã thống nhất phần lớn bán đảo Mã Lai và phát triển thành trung tâm thương mại quốc tế lớn ở Đông Nam Á thời bấy giờ. Kể từ thế kỷ 16, nó đã bị xâm lược bởi Bồ Đào Nha, Hà Lan và Vương quốc Anh. Nó trở thành thuộc địa của Anh vào năm 1911. Sarawak và Sabah thuộc về Brunei trong lịch sử, và vào năm 1888, họ trở thành người bảo vệ của Anh. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Malaya, Sarawak và Sabah bị Nhật Bản chiếm đóng. Nước Anh nối lại chế độ thuộc địa sau chiến tranh. Vào ngày 31 tháng 8 năm 1957, Liên bang Malaya trở nên độc lập trong Khối thịnh vượng chung. Vào ngày 16 tháng 9 năm 1963, Liên bang Malaya và Singapore, Sarawak, và Sabah hợp nhất để thành lập Malaysia (Singapore tuyên bố rút quân vào ngày 9 tháng 8 năm 1965).

Quốc kỳ: Là một hình chữ nhật nằm ngang với tỷ lệ chiều dài và chiều rộng là 2: 1. Phần thân chính gồm 14 sọc ngang trắng đỏ với chiều rộng bằng nhau. Ở phía trên bên trái là một hình chữ nhật màu xanh đậm với một hình lưỡi liềm màu vàng và một ngôi sao màu vàng có 14 góc nhọn. 14 thanh màu đỏ trắng và ngôi sao 14 cánh tượng trưng cho 13 bang và chính phủ của Malaysia. Màu xanh dương tượng trưng cho sự đoàn kết của người dân và mối quan hệ giữa Malaysia và Khối thịnh vượng chung ─ ─ Quốc kỳ Anh lấy màu xanh làm nền, màu vàng tượng trưng cho nguyên thủ quốc gia, và trăng lưỡi liềm tượng trưng cho quốc giáo của Malaysia.

Tổng dân số của Malaysia là 26,26 triệu người (tính đến cuối năm 2005). Trong đó, người Mã Lai và người bản địa khác chiếm 66,1%, người Hoa chiếm 25,3%, và người Ấn Độ chiếm 7,4%. Cư dân thổ dân của Bang Sarawak bị thống trị bởi người Iban, và ở Bang Sabah do người Kadashan thống trị. Tiếng Mã Lai là ngôn ngữ quốc gia, tiếng Anh nói chung và tiếng Trung Quốc cũng được sử dụng rộng rãi. Hồi giáo là quốc giáo, và các tôn giáo khác bao gồm Phật giáo, Ấn Độ giáo, Cơ đốc giáo và tôn giáo.

Malaysia rất giàu tài nguyên thiên nhiên. Sản lượng và khối lượng xuất khẩu cao su, dầu cọ và hạt tiêu thuộc hàng cao nhất thế giới. Trước những năm 1970, nền kinh tế dựa vào nông nghiệp và dựa vào xuất khẩu các sản phẩm chính. Sau đó, cơ cấu công nghiệp liên tục được điều chỉnh, các ngành điện tử, chế tạo, xây dựng và dịch vụ phát triển nhanh chóng. Giàu gỗ cứng nhiệt đới. Nông nghiệp chủ yếu là cây trồng chủ yếu là cao su, cọ dầu, hồ tiêu, ca cao và trái cây nhiệt đới. Tỷ lệ gạo tự cung tự cấp là 76%. Từ những năm 1970, cơ cấu công nghiệp liên tục được điều chỉnh, các ngành sản xuất, xây dựng và dịch vụ phát triển nhanh chóng. Giữa những năm 1980, do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, nền kinh tế gặp khó khăn. Sau khi chính phủ thực hiện các biện pháp kích thích tăng trưởng vốn nước ngoài và vốn tư nhân, nền kinh tế đã được cải thiện đáng kể. Kể từ năm 1987, nền kinh tế tiếp tục phát triển nhanh chóng và tốc độ tăng trưởng kinh tế quốc dân trung bình hàng năm duy trì trên 8%, trở thành một trong những nước công nghiệp mới nổi được chú ý ở châu Á. Du lịch là trụ cột kinh tế lớn thứ 3 của đất nước, các điểm du lịch chính là Penang, Malacca, Langkawi Island, Tioman Island, v.v. Tiền tệ: Ringgit.


Kuala Lumpur : Kuala Lumpur là thủ đô của Malaysia và là một trong những thành phố nổi tiếng nhất Đông Nam Á. Kuala Lumpur nằm trên bờ biển Tây Nam của bán đảo Mã Lai, 101 độ 41 phút kinh Đông và 3 độ 09 phút vĩ Bắc, có diện tích khoảng 244 km vuông bao gồm cả ngoại thành, dân số khoảng 1,5 triệu người, trong đó Hoa kiều và Hoa kiều chiếm 2/3, là thành phố lớn nhất Malaysia. . Các phía tây, bắc và đông của thành phố được bao quanh bởi đồi và núi. Sông Klang và sông Emai phụ lưu của nó hội tụ trong thành phố và chảy vào eo biển Malacca từ phía tây nam.

Kuala Lumpur có phong cảnh tuyệt đẹp, với các khu thương mại và dân cư ở phía đông sông Klang và các văn phòng chính phủ ở phía tây. Các đường phố của thành phố được bố trí gọn gàng. Các tòa nhà Hồi giáo điển hình và nhà ở kiểu Trung Quốc bổ sung cho nhau, đây là nét độc đáo của một thành phố phương Đông. Hương vị. Trong những năm 1970 và 1980, nhiều tòa nhà cao tầng hiện đại đã được xây dựng trong thành phố, trên khu phố Tàu bên dưới tòa nhà có thể nhìn thấy biển hiệu Trung Quốc của nhiều nhà hàng và khách sạn do Trung Quốc quản lý, và hương thơm hấp dẫn của ẩm thực Hoa Lai thỉnh thoảng có thể nhìn thấy trong các nhà hàng. Kuala Lumpur nằm trong khu vực đồi núi đá vôi với nhiều hang động. Các hố mỏ cũ bị bỏ hoang ở ngoại ô Kuala Lumpur hiện được cất giữ làm hồ nuôi cá hoặc làm công viên. Trong đó nổi tiếng là Động Batu, Động nước nóng,… Ngoài ra, các công trình kiến ​​trúc và danh lam thắng cảnh nổi tiếng bao gồm Tòa nhà Quốc hội, Bảo tàng Quốc gia, Thác Jilangjie, Công viên Lakeside và Nhà thờ Hồi giáo Quốc gia.


Tất cả các ngôn ngữ