Serbia mã quốc gia +381

Cách quay số Serbia

00

381

--

-----

IDDmã quốc gia Mã thành phốsố điện thoại

Serbia Thông tin cơ bản

Giờ địa phương Thời gian của bạn


Múi giờ địa phương Chênh lệch múi giờ
UTC/GMT +1 giờ

vĩ độ / kinh độ
44°12'24"N / 20°54'39"E
mã hóa iso
RS / SRB
tiền tệ
Dinar (RSD)
Ngôn ngữ
Serbian (official) 88.1%
Hungarian 3.4%
Bosnian 1.9%
Romany 1.4%
other 3.4%
undeclared or unknown 1.8%
điện lực
Loại c Châu Âu 2 chân Loại c Châu Âu 2 chân
Phích cắm Shuko loại F Phích cắm Shuko loại F
Quốc kỳ
SerbiaQuốc kỳ
thủ đô
Belgrade
danh sách ngân hàng
Serbia danh sách ngân hàng
dân số
7,344,847
khu vực
88,361 KM2
GDP (USD)
43,680,000,000
điện thoại
2,977,000
Điện thoại di động
9,138,000
Số lượng máy chủ Internet
1,102,000
Số người dùng Internet
4,107,000

Serbia Giới thiệu

Serbia nằm trong đất nước không giáp biển của Bán đảo Balkan, với Đồng bằng sông Danube ở phía bắc, sông Danube chạy qua phía đông và phía tây, và nhiều núi và đồi ở phía nam. Điểm cao nhất ở Serbia là núi Daravica ở biên giới Albania và Kosovo, với độ cao 2.656 mét. Nó kết nối với Romania ở phía đông bắc, Bulgaria ở phía đông, Macedonia ở phía đông nam, Albania ở phía nam, Montenegro ở phía tây nam, Bosnia và Herzegovina ở phía tây, và Croatia ở phía tây bắc. Lãnh thổ có diện tích 88.300 km vuông.

Serbia, tên đầy đủ là Cộng hòa Serbia, nằm ở Bắc-Trung bán đảo Balkan, với Romania ở phía đông bắc, Bulgaria ở phía đông, Macedonia ở phía đông nam, Albania ở phía nam, Montenegro ở phía tây nam, Bosnia và Herzegovina ở phía tây và Croatia ở phía tây bắc. Lãnh thổ có diện tích 88.300 km vuông.

Vào thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên, một số người Slav đã vượt qua sông Carpathians và di cư đến vùng Balkan. Từ thế kỷ thứ 9, Serbia và các quốc gia khác bắt đầu hình thành. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Serbia gia nhập Vương quốc Nam Tư. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Serbia trở thành một trong sáu nước cộng hòa của Cộng hòa Liên bang Xã hội Chủ nghĩa Nam Tư. Năm 1991, Yuannan bắt đầu tan rã. Năm 1992, Serbia và Montenegro thành lập Cộng hòa Liên bang Nam Tư. Ngày 4 tháng 2 năm 2003, Liên bang Nam Tư đổi tên thành Serbia và Montenegro ("Serbia và Montenegro"). Ngày 3 tháng 6 năm 2006, Cộng hòa Montenegro tuyên bố độc lập. Vào ngày 5 tháng 6, Cộng hòa Serbia tuyên bố kế vị Serbia và Montenegro là đối tượng của luật pháp quốc tế.

Dân số: 9,9 triệu người (2006). Ngôn ngữ chính thức là tiếng Serbia. Tôn giáo chính là Nhà thờ Chính thống.

Do chiến tranh và các lệnh trừng phạt, nền kinh tế Serbia đã rơi vào tình trạng trì trệ trong thời gian dài. Trong những năm gần đây, với sự cải thiện của môi trường bên ngoài và sự tiến bộ của các cải cách kinh tế khác nhau, nền kinh tế Serbia đã có sự tăng trưởng phục hồi. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Cộng hòa Serbia năm 2005 là 24,5 tỷ đô la Mỹ, tăng khoảng 6,5% so với cùng kỳ năm ngoái. , US $ 3273 trên đầu người.


Belgrade: Belgrade là thủ đô của Cộng hòa Serbia. Nó nằm ở lõi của Bán đảo Balkan. Nó nằm ở nơi hợp lưu của sông Danube và sông Sava, đồng thời nối với đồng bằng Danube ở giữa ở phía bắc, Vojvo Đồng bằng Dinar, những ngọn đồi Sumadia kéo dài từ Dãy núi Cairo về phía nam, là tuyến đường giao thông thủy và bộ chính giữa sông Danube và Balkan, là điểm tiếp xúc quan trọng giữa châu Âu và Cận Đông, có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng và được biết đến như là chìa khóa dẫn đến Balkan. .

Sông Sava xinh đẹp chảy qua thành phố và chia Belgrade thành hai. Một bên là thành phố cổ kính và một bên là thành phố mới trong một cụm các tòa nhà hiện đại. Địa hình cao ở phía nam và thấp ở phía bắc, có khí hậu ôn đới lục địa, nhiệt độ thấp nhất vào mùa đông có thể đạt -25 ℃, nhiệt độ cao nhất vào mùa hè là 40 ℃, lượng mưa hàng năm là 688 mm và sự biến động giữa các năm rất lớn. Nó có diện tích 200 km vuông. Với dân số 1,55 triệu người, phần lớn cư dân là người Serb, phần còn lại là người Croatia và Montenegro.

Belgrade là một thành phố cổ với lịch sử hơn 2.000 năm. Vào thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên, người Celt đầu tiên thành lập các thị trấn ở đây. Vào thế kỷ 1 trước Công nguyên, người La Mã đã chiếm đóng thành phố. Từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 5 sau Công nguyên, thành phố đã bị phá hủy bởi người Huns xâm lược. Vào thế kỷ 8, người Nam Tư bắt đầu xây dựng lại. Thành phố ban đầu được đặt tên là "Shinji Dunum". Vào thế kỷ thứ 9, nó được đổi tên thành "Belgrade", có nghĩa là "Thành phố Trắng". Belgrade có vị trí rất quan trọng, luôn là chiến trường của các nhà chiến lược quân sự, trong lịch sử đã phải hứng chịu hàng trăm năm nô dịch của nước ngoài và chịu 40 thiệt hại nghiêm trọng, trở thành đối thủ của Byzantium, Bulgaria, Hungary, Thổ Nhĩ Kỳ và các nước khác. . Nó trở thành thủ đô của Serbia vào năm 1867. Nó trở thành thủ đô của Nam Tư vào năm 1921. Nó gần như bị san bằng trong Thế chiến thứ hai và được xây dựng lại sau chiến tranh. Vào tháng 2 năm 2003, nó trở thành thủ đô của Serbia và Montenegro.

Về nguồn gốc của cái tên "Belgrade", có một truyền thuyết địa phương kể rằng: Cách đây rất lâu, một nhóm doanh nhân và du khách đi thuyền và đến nơi sông Sava và sông Danube hội tụ, và một vùng đất rộng lớn bỗng hiện ra trước mặt. Những ngôi nhà màu trắng, vì vậy mọi người hét lên: "Belgrade!" "Belgrade!" "Bell" có nghĩa là "màu trắng", "Glade" có nghĩa là "lâu đài", "Belgrade" có nghĩa là "lâu đài trắng" hoặc "Thành phố trắng".

Belgrade là một trung tâm công nghiệp quan trọng của đất nước và máy móc, hóa chất, dệt may, da, thực phẩm, in ấn và chế biến gỗ chiếm một vị trí nổi bật trong cả nước. Đây là đầu mối giao thông đường bộ và đường thủy chính của cả nước, đồng thời chiếm vị trí quan trọng trong giao thông vận tải quốc tế của Đông Nam Âu. Các tuyến đường sắt dẫn đến mọi miền của đất nước, và lượng hành khách và hàng hóa của nó đứng đầu cả nước. Có 4 tuyến đường sắt điện khí hóa đến Ljubljana, Rijeka, Bar và Smederevo. Có 2 đường cao tốc, một đường nối Hy Lạp về phía đông nam và một đường nối Ý và Áo ở phía tây. Có một sân bay quốc tế ở phía Tây của thành phố.


Tất cả các ngôn ngữ