Liberia mã quốc gia +231

Cách quay số Liberia

00

231

--

-----

IDDmã quốc gia Mã thành phốsố điện thoại

Liberia Thông tin cơ bản

Giờ địa phương Thời gian của bạn


Múi giờ địa phương Chênh lệch múi giờ
UTC/GMT 0 giờ

vĩ độ / kinh độ
6°27'8"N / 9°25'42"W
mã hóa iso
LR / LBR
tiền tệ
Đô la (LRD)
Ngôn ngữ
English 20% (official)
some 20 ethnic group languages few of which can be written or used in correspondence
điện lực
Một loại Bắc Mỹ-Nhật Bản 2 kim Một loại Bắc Mỹ-Nhật Bản 2 kim
Loại b US 3 chân Loại b US 3 chân
Quốc kỳ
LiberiaQuốc kỳ
thủ đô
Monrovia
danh sách ngân hàng
Liberia danh sách ngân hàng
dân số
3,685,076
khu vực
111,370 KM2
GDP (USD)
1,977,000,000
điện thoại
3,200
Điện thoại di động
2,394,000
Số lượng máy chủ Internet
7
Số người dùng Internet
20,000

Liberia Giới thiệu

Liberia nằm ở phía Tây châu Phi, giáp với Guinea về phía Bắc, Sierra Leone về phía Tây Bắc, Côte d’Ivoire về phía Đông và Đại Tây Dương về phía Tây Nam, có diện tích hơn 111.000 km vuông và có đường bờ biển dài 537 km. Toàn bộ lãnh thổ cao ở phía bắc và thấp ở phía nam, từ bờ biển vào sâu trong đất liền có ba bước: đồng bằng hẹp ven biển, đồi thoai thoải ở giữa và cao nguyên ở phía trong. Thủ đô của Liberia là Monrovia, nằm trên Mũi Messurado và Đảo Bushrod trên bờ biển Đại Tây Dương phía Tây Châu Phi, là cửa ngõ quan trọng ra biển ở Tây Phi và được mệnh danh là "Thủ đô mưa của Châu Phi".

Liberia, tên đầy đủ là Cộng hòa Liberia, nằm ở phía Tây Châu Phi, giáp Guinea về phía Bắc, Sierra Leone về phía Tây Bắc, Côte d’Ivoire về phía Đông và Đại Tây Dương về phía Tây Nam, với diện tích hơn 111.000 km vuông. Đường bờ biển dài 537 km. Toàn bộ lãnh thổ cao ở phía bắc và thấp ở phía nam. Từ bờ biển vào nội địa có khoảng ba bước: một đồng bằng hẹp rộng 30-60 km dọc theo bờ biển, một ngọn đồi thoai thoải với độ cao trung bình 300-500 mét ở giữa, và một cao nguyên với độ cao trung bình 700 mét trong nội địa. Đỉnh cao nhất là núi Vuthivi ở phía tây bắc, với độ cao 1381 mét. Con sông lớn nhất, Kavala, dài 516 km. Các con sông lớn hơn bao gồm sông Sestos, St. John, St. Paul và Mano. Nơi đây có khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ trung bình hàng năm là 25 độ C. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau.

Cộng hòa Liberia được thành lập vào tháng 7 năm 1847 bởi những người Mỹ da đen nhập cư, và nó được cai trị bởi con cháu của những người Mỹ da đen nhập cư trong hơn 100 năm. Năm 1980, Thượng sĩ Đới, người dân tộc Sếu, phát động cuộc đảo chính và thành lập chính phủ quân sự. Năm 1985, Liberia tổ chức cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội đa đảng đầu tiên trong lịch sử, và Doe được bầu làm tổng thống. Năm 1989, Charles Taylor, một cựu quan chức chính phủ lưu vong, dẫn đầu lực lượng vũ trang của mình trở về Liberia, và cuộc nội chiến bùng nổ. Năm 2003, cuộc nội chiến kết thúc và chính phủ chuyển tiếp Tự do được thành lập. Vào tháng 10 năm 2005, Liberia tổ chức cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội đầu tiên sau cuộc nội chiến và thành lập chính phủ mới.

Quốc kỳ: một hình chữ nhật nằm ngang với tỷ lệ chiều dài và chiều rộng là 19:10. Nó bao gồm 11 thanh song song màu đỏ và trắng, góc trên bên trái là hình vuông màu xanh với ngôi sao năm cánh màu trắng bên trong. 11 sọc đỏ và trắng tưởng nhớ 11 người ký Tuyên ngôn Độc lập của Liberia. Màu đỏ tượng trưng cho lòng dũng cảm, màu trắng tượng trưng cho đức hạnh, màu xanh lam tượng trưng cho lục địa Châu Phi và hình vuông thể hiện khát vọng tự do, hòa bình, dân chủ và tình huynh đệ của người Liberia; ngôi sao năm cánh tượng trưng cho nước cộng hòa da đen duy nhất ở Châu Phi vào thời điểm đó.

Liberia có dân số 3,48 triệu người (2005). Có 16 nhóm sắc tộc, những nhóm lớn hơn là Keppel, Barcelona, ​​Dan, Crewe, Grebo, Mano, Loma, Gora, Mandingo, Bell và hậu duệ của những người da đen nhập cư từ miền nam Hoa Kỳ vào thế kỷ 19. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh. Các nhóm dân tộc lớn hơn có ngôn ngữ riêng của họ. 40% cư dân tin vào tôn giáo, 40% tin vào Thiên chúa giáo và 20% tin vào Hồi giáo.

Liberia là một trong những quốc gia kém phát triển nhất trên thế giới được Liên hợp quốc công bố. Nhiều năm chiến tranh đã ảnh hưởng nặng nề đến sự phát triển kinh tế của Liberia. Năm 2005, GDP của Liberia là 548 triệu đô la Mỹ và GDP bình quân đầu người là 175 đô la Mỹ.

Nền kinh tế của Liberia chủ yếu là nông nghiệp và dân số nông nghiệp chiếm 70% tổng dân số. Sản xuất cao su tự nhiên, gỗ và quặng sắt là trụ cột chính của nền kinh tế quốc dân, tất cả đều là để xuất khẩu và là nguồn thu ngoại tệ chính. Liberia giàu tài nguyên thiên nhiên, với trữ lượng quặng sắt ước tính khoảng 1,8 tỷ tấn, khiến nước này trở thành nước xuất khẩu quặng sắt lớn thứ hai ở châu Phi. Ngoài ra, ở đây còn có các mỏ khoáng sản như kim cương, vàng, bôxit, đồng, chì, mangan, kẽm, columbium, tantali, barit và kyanite. Rừng có diện tích 4,79 triệu ha, chiếm 58% diện tích cả nước, là vùng rừng rộng lớn ở Châu Phi, giàu các loại gỗ quý như gụ, đàn hương. Núi Rimba được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới vì có hệ động thực vật độc đáo.

Ngành hàng hải của Liberia chiếm một vị trí đặc biệt trên thế giới, vị trí địa lý vượt trội, gần Đại Tây Dương, giao thông hàng hải vô cùng thuận lợi, có 5 cảng trong đó có Monrovia và lượng hàng hóa hàng năm lên tới 200.000 tấn. Liberia cũng là quốc gia mang cờ tiện lợi lớn thứ 2 trên thế giới, hiện nay trên thế giới đã có hơn 1.800 tàu treo cờ phướn.


Tất cả các ngôn ngữ