Zimbabwe Thông tin cơ bản
Giờ địa phương | Thời gian của bạn |
---|---|
|
|
Múi giờ địa phương | Chênh lệch múi giờ |
UTC/GMT +2 giờ |
vĩ độ / kinh độ |
---|
19°0'47"S / 29°8'47"E |
mã hóa iso |
ZW / ZWE |
tiền tệ |
Đô la (ZWL) |
Ngôn ngữ |
English (official) Shona Sindebele (the language of the Ndebele sometimes called Ndebele) numerous but minor tribal dialects |
điện lực |
Loại d phích cắm cũ của Anh g loại Anh 3 chân |
Quốc kỳ |
---|
thủ đô |
Harare |
danh sách ngân hàng |
Zimbabwe danh sách ngân hàng |
dân số |
11,651,858 |
khu vực |
390,580 KM2 |
GDP (USD) |
10,480,000,000 |
điện thoại |
301,600 |
Điện thoại di động |
12,614,000 |
Số lượng máy chủ Internet |
30,615 |
Số người dùng Internet |
1,423,000 |
Zimbabwe Giới thiệu
Zimbabwe có diện tích hơn 390.000 km vuông và nằm ở đông nam châu Phi, là một quốc gia không giáp biển với Mozambique ở phía đông, Nam Phi ở phía nam và Botswana và Zambia ở phía tây và tây bắc. Phần lớn là địa hình cao nguyên, độ cao trung bình hơn 1.000m, được chia thành ba dạng địa hình là đồng cỏ cao, đồng cỏ trung bình và đồng cỏ thấp. Núi Inyangani ở phía đông có độ cao 2.592 mét so với mực nước biển, là điểm cao nhất cả nước, các con sông chính là Zambezi và Limpopo, đây là hai con sông biên giới với Zambia và Nam Phi. Zimbabwe, tên đầy đủ là Cộng hòa Zimbabwe, có diện tích hơn 390.000 km vuông. Zimbabwe nằm ở đông nam châu Phi và là một quốc gia không giáp biển. Nó tiếp giáp với Mozambique về phía đông, Nam Phi về phía nam, và Botswana và Zambia về phía tây và tây bắc. Phần lớn là địa hình cao nguyên, độ cao trung bình hơn 1.000m. Có ba dạng địa hình: đồng cỏ cao, đồng cỏ giữa và đồng cỏ thấp. Núi Inyangani ở phía đông cao 2.592 mét so với mực nước biển, là điểm cao nhất cả nước. Các con sông chính là Zambezi và Limpopo, lần lượt là các con sông biên giới với Zambia và Nam Phi. Khí hậu đồng cỏ nhiệt đới, với nhiệt độ trung bình hàng năm là 22 ℃, nhiệt độ cao nhất vào tháng 10, đạt 32 ℃, và nhiệt độ thấp nhất vào tháng 7, khoảng 13-17 ℃. Đất nước được chia thành 8 tỉnh, với 55 quận và 14 thành phố trực thuộc trung ương. Tên của tám tỉnh là: Mashonaland West, Mashonaland Central, Mashonaland East, Manica, Central, Mazunago, Matabeleland North và Matabeleland South. Zimbabwe là một quốc gia cổ đại phía nam châu Phi mang đậm dấu ấn lịch sử châu Phi. Vào khoảng năm 1100 sau Công Nguyên, một nhà nước tập trung bắt đầu hình thành. Người Karenga thành lập Vương quốc Monomotapa vào thế kỷ 13, và vương quốc này đạt đến thời kỳ hoàng kim vào đầu thế kỷ 15. Năm 1890, Zimbabwe trở thành thuộc địa của Anh, năm 1895, Anh đặt tên miền Nam Rhodesia theo tên thực dân Rhodes. Năm 1923, chính phủ Anh tiếp quản vùng đất và cấp cho nó tình trạng "lãnh thổ thống trị". Năm 1964, chế độ Smith White ở Nam Rhodesia đổi tên đất nước thành Rhodesia, và đơn phương tuyên bố "độc lập" vào năm 1965, và đổi tên thành "Cộng hòa Rhodesia" vào năm 1970. Vào tháng 5 năm 1979, đất nước được đổi tên thành "Cộng hòa Zimbabwe (Rhodesia)". Do bị phản đối mạnh mẽ trong và ngoài nước nên nó chưa được quốc tế công nhận. Độc lập vào ngày 18 tháng 4 năm 1980, đất nước được đặt tên là Cộng hòa Zimbabwe. Quốc kỳ: Là một hình chữ nhật nằm ngang với tỷ lệ chiều dài và chiều rộng là 2: 1. Mặt bên của cột cờ là hình tam giác cân màu trắng viền đen, ở giữa là ngôi sao năm cánh màu đỏ, bên trong ngôi sao là hình chim Zimbabwe, màu trắng tượng trưng cho hòa bình, ngôi sao năm cánh tượng trưng cho ước nguyện tốt đẹp của đất nước và dân tộc, chim Zimbabwe là biểu tượng độc đáo của đất nước , Cũng là biểu tượng của các nền văn minh cổ đại ở Zimbabwe và các nước châu Phi, bên phải là bảy vạch song song, màu đen ở trung tâm, hai mặt trên và dưới có màu đỏ, vàng và xanh lá cây. Màu đen tượng trưng cho phần lớn dân số da đen, màu đỏ tượng trưng cho máu của nhân dân đã tưới cho nền độc lập, màu vàng tượng trưng cho tài nguyên khoáng sản và màu xanh lá cây tượng trưng cho nền nông nghiệp của đất nước. Zimbabwe có dân số 13,1 triệu người. Người da đen chiếm 97,6% dân số, chủ yếu là người Shona (79%) và Ndebele (17%), người da trắng chiếm 0,5%, và người châu Á chiếm khoảng 0,41%. Tiếng Anh, tiếng Shona và tiếng Ndebele cũng là ngôn ngữ chính thức. 40% dân số tin vào tôn giáo nguyên thủy, 58% tin vào Cơ đốc giáo, và 1% tin vào Hồi giáo. Zimbabwe giàu tài nguyên thiên nhiên và có nền tảng công nghiệp và nông nghiệp tốt. Các sản phẩm công nghiệp được xuất khẩu sang các nước láng giềng, những năm bình thường còn hơn tự túc lương thực, là nước xuất khẩu thuốc lá đứng thứ 3 thế giới, trình độ phát triển kinh tế chỉ đứng sau Nam Phi ở Nam Phi, chế tạo, khai khoáng và nông nghiệp là ba trụ cột của nền kinh tế quốc dân. . Giá trị đầu ra của doanh nghiệp tư nhân chiếm khoảng 80% GDP. Các ngành hàng công nghiệp chủ yếu bao gồm chế biến kim loại và kim loại (25% tổng giá trị sản lượng), chế biến thực phẩm (15%), hóa dầu (13%), đồ uống và thuốc lá (11%), dệt may (10%) , Quần áo (8%), làm giấy và in ấn (6%), v.v. Nông nghiệp và chăn nuôi chủ yếu sản xuất ngô, thuốc lá, bông, hoa, mía, chè ... Chăn nuôi chủ yếu là gia súc. Với diện tích đất canh tác 33,28 triệu ha, dân số nông nghiệp chiếm 67% dân số cả nước, không chỉ tự cung tự cấp lương thực mà còn nổi tiếng là “vựa lúa” ở miền nam châu Phi. Thiên Tân đã trở thành một nhà xuất khẩu lương thực lớn ở châu Phi, một nhà xuất khẩu thuốc lá xông khói lớn trên thế giới và là nhà cung cấp lớn thứ tư trên thị trường hoa Châu Âu. Xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp chiếm khoảng một phần ba doanh thu xuất khẩu của đất nước. Ngành du lịch của Zimbabwe đã phát triển nhanh chóng và trở thành ngành thu ngoại tệ chính của Zimbabwe. Danh lam thắng cảnh nổi tiếng là thác Victoria, nơi đây có 26 công viên quốc gia và khu bảo tồn động vật hoang dã. Harare: Harare, thủ đô của Zimbabwe, nằm trên cao nguyên ở phía đông bắc của Zimbabwe, với độ cao hơn 1.400 mét. Được xây dựng vào năm 1890. Lâu đài ban đầu được xây dựng để thực dân Anh xâm lược và chiếm đóng Mashonaland và được đặt theo tên của cựu Thủ tướng Anh Lord Salisbury. Từ năm 1935, nó được xây dựng lại và dần hình thành nên thành phố hiện đại ngày nay. Ngày 18 tháng 4 năm 1982, chính phủ Zimbabwe quyết định đổi tên Salisbury thành Harare. Trong tiếng Shona, Harare có nghĩa là "thành phố không bao giờ ngủ". Theo truyền thuyết, tên này được biến đổi từ tên của một tù trưởng. Ông luôn cảnh giác, không bao giờ ngủ, có tinh thần quyết chiến chống giặc. Harare có khí hậu dễ chịu, với thảm thực vật tươi tốt và hoa nở quanh năm. Các con đường trong thành phố đan chéo nhau, tạo thành vô số ký tự "Tắc". Đại lộ rợp bóng cây rộng, sạch sẽ và yên tĩnh, có nhiều công viên, vườn tược, trong đó nổi tiếng là công viên Salisbury có thác nước nhân tạo mô phỏng “thác Victoria” đổ ào ào, ào ạt đổ xuống. Có Bảo tàng Victoria ở Harare, nơi chứa những bức tranh của người bản địa trong những năm đầu tiên và những di vật văn hóa quý giá được khai quật từ "Địa điểm Zimbabwe vĩ đại". Ngoài ra còn có các nhà thờ lớn, trường đại học, sân vận động Ruffalo và các phòng trưng bày nghệ thuật. Núi Kobe xanh tươi nằm ở phía Tây thành phố, vào tháng 4 năm 1980, đích thân Thủ tướng Mugabe lúc bấy giờ đã thắp ngọn đuốc sáng mãi nơi đây để tỏ lòng thương tiếc những chiến sĩ đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do. Từ trên đỉnh núi có thể nhìn thấy toàn cảnh Harare. Cách thành phố 30 km về phía tây nam là một công viên quốc gia, nơi có những khu rừng rậm rạp và những hồ nước trong vắt là nơi thích hợp để bơi lội, chèo thuyền và ngắm nhìn các loài động thực vật châu Phi. Các vùng ngoại ô đông nam và tây thành phố là khu vực công nghiệp và là một trong những thị trường phân phối thuốc lá lớn nhất thế giới. Vùng ngoại ô ở đây được người dân địa phương gọi là “Gowa”, có nghĩa là “vùng đất đỏ”. |