Mông Cổ Thông tin cơ bản
Giờ địa phương | Thời gian của bạn |
---|---|
|
|
Múi giờ địa phương | Chênh lệch múi giờ |
UTC/GMT +8 giờ |
vĩ độ / kinh độ |
---|
46°51'39"N / 103°50'12"E |
mã hóa iso |
MN / MNG |
tiền tệ |
Tugrik (MNT) |
Ngôn ngữ |
Khalkha Mongol 90% (official) Turkic Russian (1999) |
điện lực |
Loại c Châu Âu 2 chân |
Quốc kỳ |
---|
thủ đô |
Ulan Bator |
danh sách ngân hàng |
Mông Cổ danh sách ngân hàng |
dân số |
3,086,918 |
khu vực |
1,565,000 KM2 |
GDP (USD) |
11,140,000,000 |
điện thoại |
176,700 |
Điện thoại di động |
3,375,000 |
Số lượng máy chủ Internet |
20,084 |
Số người dùng Internet |
330,000 |
Mông Cổ Giới thiệu
Mông Cổ có diện tích 1,5665 triệu km vuông, là một quốc gia không giáp biển ở Trung Á, nằm trên cao nguyên Mông Cổ, giáp Trung Quốc ở 3 phía về phía đông, nam và tây và nước láng giềng Siberia của Nga ở phía bắc. Phần phía tây, phía bắc và miền trung chủ yếu là đồi núi, phần phía đông là đồng bằng đồi núi và phần phía nam là sa mạc Gobi. Trên núi có nhiều sông và hồ, sông chính là sông Selenge và sông Orkhon phụ lưu của nó. Hồ Kusugul nằm ở phía bắc của Mông Cổ, là hồ lớn nhất ở Mông Cổ và được mệnh danh là "Hòn ngọc xanh của phương Đông". Mông Cổ có khí hậu lục địa điển hình. Mông Cổ, tên đầy đủ là Mông Cổ, có diện tích 1,56 triệu km vuông, là một quốc gia nội địa ở Trung Á và nằm trên cao nguyên Mông Cổ. Ba mặt giáp Trung Quốc ở phía đông, nam và tây, và các nước láng giềng Siberia của Nga ở phía bắc. Phần phía tây, phía bắc và miền trung chủ yếu là đồi núi, phần phía đông là đồng bằng đồi núi và phần phía nam là sa mạc Gobi. Trên núi có nhiều sông và hồ, sông chính là sông Selenge và sông Orkhon phụ lưu của nó. Trên lãnh thổ có hơn 3.000 hồ lớn nhỏ, với tổng diện tích hơn 15.000 km vuông. Đó là một khí hậu lục địa điển hình. Nhiệt độ thấp nhất vào mùa đông có thể lên tới -40 ℃, và nhiệt độ cao nhất vào mùa hè có thể lên tới 35 ℃. Ngoài thủ đô, đất nước được chia thành 21 tỉnh, cụ thể là: Tỉnh Houhangai, Tỉnh Bayan-Ulgai, Tỉnh Bayanhonggar, Tỉnh Burgan, Tỉnh Gobi Altai, Tỉnh Đông Gobi , Tỉnh phía Đông, Tỉnh Gobi Trung tâm, Tỉnh Zabhan, Tỉnh Aqabatangai, Tỉnh Nam Gobi, Tỉnh Sukhbaatar, Tỉnh Selenga, Tỉnh Trung tâm, Tỉnh Ubusu, Tỉnh Khobdo, Kussugu Tỉnh Azerbaijan, Tỉnh Kent, Tỉnh Orkhon, Tỉnh Dar Khan Ul và Tỉnh Gobi Sumbel. Mông Cổ ban đầu được gọi là Ngoại Mông hoặc Khalkha Mông Cổ. Quốc gia Mông Cổ có lịch sử hàng nghìn năm. Vào đầu thế kỷ 13 sau Công Nguyên, Thành Cát Tư Hãn đã thống nhất các bộ lạc phía bắc và phía nam của sa mạc và thành lập một Hãn quốc Mông Cổ thống nhất. Nhà Nguyên được thành lập vào năm 1279-1368. Tháng 12 năm 1911, các hoàng thân Mông Cổ tuyên bố "tự trị" với sự ủng hộ của Nga hoàng. Từ bỏ "quyền tự trị" vào năm 1919. Năm 1921, Mông Cổ thiết lập chế độ quân chủ lập hiến. Ngày 26 tháng 11 năm 1924, chế độ quân chủ lập hiến bị bãi bỏ và nước cộng hòa nhân dân Mông Cổ được thành lập. Ngày 5 tháng 1 năm 1946, chính phủ Trung Quốc lúc bấy giờ công nhận nền độc lập của Ngoại Mông. Vào tháng 2 năm 1992, nó được đổi tên thành "Mông Cổ". Quốc kỳ: Là hình chữ nhật nằm ngang với tỷ lệ chiều dài và chiều rộng là 2: 1. Mặt cờ gồm ba hình chữ nhật đứng bằng nhau, hai bên có màu đỏ và màu xanh ở giữa. Hình chữ nhật màu đỏ bên trái có các họa tiết hình lửa, mặt trời, mặt trăng, hình chữ nhật, hình tam giác và âm dương màu vàng. Màu đỏ và xanh trên lá cờ là màu truyền thống mà người Mông Cổ yêu thích, màu đỏ tượng trưng cho hạnh phúc và chiến thắng, màu xanh tượng trưng cho lòng trung thành với tổ quốc, màu vàng tượng trưng cho tự do và độc lập dân tộc. Ngọn lửa, mặt trời và mặt trăng biểu thị cho sự thịnh vượng và cuộc sống vĩnh cửu của con người từ đời này sang đời khác; hình tam giác và hình chữ nhật tượng trưng cho trí tuệ, sự chính trực và lòng trung thành của con người; hình âm dương tượng trưng cho sự hòa hợp và hợp tác; hai hình chữ nhật đứng tượng trưng cho rào cản vững chắc của đất nước. Dân số của Mông Cổ là 2,504 triệu người. Mông Cổ là một đất nước của những đồng cỏ rộng lớn và dân cư thưa thớt, với mật độ dân số trung bình là 1,5 người trên một km vuông. Dân số chủ yếu là người Mông Cổ Khalkha, chiếm khoảng 80% dân số cả nước, ngoài ra còn có 15 dân tộc thiểu số bao gồm Kazakh, Durbert, Bayat và Buryat. Trước đây, khoảng 40% dân số sống ở nông thôn, từ những năm 1990, cư dân thành thị đã chiếm 80% tổng dân số, trong đó cư dân sống ở Ulaanbaatar chiếm 1/4 tổng dân số cả nước. Dân cư nông nghiệp chủ yếu là những người du mục chăn nuôi gia súc. Ngôn ngữ chính là tiếng Mông Cổ Kharkha. Cư dân chủ yếu tin vào đạo Lama, là quốc giáo theo "Luật quan hệ giữa nhà nước và đền thờ". Cũng có một số cư dân tin vào tôn giáo màu vàng của thổ dân và Hồi giáo. Mông Cổ có đồng cỏ rộng lớn và tài nguyên khoáng sản phong phú. Mỏ đồng molypden ở Erdent đã được xếp vào danh sách mười mỏ đồng molypden hàng đầu trên thế giới, đứng đầu ở châu Á. Diện tích rừng là 18,3 triệu ha, tỷ lệ che phủ rừng toàn quốc là 8,2%, trữ lượng gỗ 1,2 tỷ mét khối. Trữ lượng nước là 6 tỷ mét khối. Chăn nuôi là ngành kinh tế truyền thống và là nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Ngành công nghiệp này chủ yếu là các ngành công nghiệp nhẹ, thực phẩm, khai thác mỏ và năng lượng nhiên liệu. Các điểm du lịch chính là thủ đô cổ đại Har và Lin, hồ Kusugul, khu du lịch Treerji, khu săn bắn Nam Gobi, Đông Gobi và Altai. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là tinh quặng đồng-molypden, len, len cashmere, da, thảm và các sản phẩm chăn nuôi khác; các sản phẩm nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị, dầu đốt và nhu yếu phẩm. |